Tín dụng xanh tại Việt Nam đang tăng trưởng mạnh nhưng còn nhiều rào cản
Tín dụng xanh đang nổi lên như một giải pháp tài chính chủ lực giúp các quốc gia giải

Tín dụng xanh đang nổi lên như một giải pháp tài chính chủ lực giúp các quốc gia giải quyết đồng thời hai bài toán lớn: tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường. Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, nhu cầu về một hệ thống tài chính xanh, minh bạch và hiệu quả càng trở nên cấp thiết. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ Dự thảo Quyết định quy định về tiêu chí môi trường và quy trình xác nhận các dự án đầu tư đủ điều kiện cấp tín dụng xanh hoặc phát hành trái phiếu xanh. Dự thảo này là bước tiến quan trọng nhằm hoàn thiện khung pháp lý, đồng thời nâng cao chất lượng kiểm soát dòng vốn hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững.
Tín dụng xanh tại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng chú ý trong những năm gần đây. Giai đoạn 2017–2023, dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng trung bình 22% mỗi năm. Tính đến tháng 3/2024, tổng dư nợ đạt gần 637.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Dù con số này thể hiện sự tiến bộ rõ rệt, song vẫn còn quá thấp nếu so với tiềm năng phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam. Phần lớn tín dụng xanh hiện nay tập trung vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (khoảng 30%). Đây là các lĩnh vực được xem là “lõi xanh” của nền kinh tế mới, nơi dòng vốn cần được ưu tiên định hướng. Một số tổ chức tín dụng như BIDV, TPBank, VietinBank, MSB, ACB, Agribank hay Nam A Bank đã chủ động thiết kế nhiều gói vay ưu đãi có lãi suất thấp hơn 0,5% đến 2% so với thông thường, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp triển khai các dự án xanh hoặc chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng thân thiện với môi trường.
Thị trường tài chính xanh còn nhiều rào cản: Thiếu tiêu chí, thiếu năng lực thẩm định
Mặc dù có tín hiệu tích cực từ các ngân hàng và doanh nghiệp tiên phong, thị trường tín dụng xanh tại Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều rào cản. Trước hết là vấn đề thiếu một khung pháp lý thống nhất và minh bạch về tiêu chí xác định dự án xanh. Cho đến nay, chưa có bộ tiêu chuẩn quốc gia nào được ban hành chính thức để phân loại, thẩm định và xác nhận dự án nào đủ điều kiện nhận vốn tín dụng xanh hoặc phát hành trái phiếu xanh. Điều này khiến các ngân hàng gặp khó trong khâu xét duyệt hồ sơ, dễ bị rủi ro pháp lý hoặc buộc phải sử dụng quy trình nội bộ không nhất quán. Một dự án có thể được xem là “xanh” theo đánh giá nội bộ của ngân hàng A, nhưng lại không đạt chuẩn nếu xét theo hệ quy chiếu khác của ngân hàng B hoặc tổ chức quốc tế.
Bên cạnh đó, phần lớn các dự án xanh đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài, trong khi lại tiềm ẩn rủi ro về công nghệ, thị trường hoặc chính sách. Điều này khiến không ít ngân hàng e ngại tiếp cận các khoản vay loại này, đặc biệt là với các dự án vừa và nhỏ – vốn là phân khúc chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế tư nhân của Việt Nam. Không những vậy, chính các doanh nghiệp cũng còn hạn chế về năng lực tiếp cận tín dụng xanh do chưa hiểu rõ yêu cầu hồ sơ, chưa đủ chuyên môn để chứng minh hiệu quả môi trường của dự án, hoặc chưa nhận thức được các lợi ích tài chính lâu dài từ việc đầu tư xanh. Các ngân hàng, trong khi đó, vẫn thiếu nhân sự chuyên sâu về ESG, môi trường và đánh giá rủi ro xanh, khiến quá trình tư vấn và hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn còn mang tính hình thức, chưa tạo ra chuyển biến thực chất.

Dự thảo Quyết định: Định hình chuẩn mực pháp lý cho tín dụng xanh và trái phiếu xanh
Chính vì vậy, Dự thảo Quyết định được trình lần này có ý nghĩa đặc biệt trong việc “chuẩn hóa” các yếu tố đầu vào cho một dự án xanh. Cụ thể, để được xác nhận là dự án đủ điều kiện cấp tín dụng xanh hoặc phát hành trái phiếu xanh, chủ đầu tư phải chứng minh dự án có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), giấy phép môi trường hoặc đăng ký môi trường còn hiệu lực; đồng thời dự án phải thuộc các lĩnh vực có tác động tích cực đến môi trường như tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính, tái chế chất thải, bảo tồn đa dạng sinh học, sử dụng hiệu quả tài nguyên… Ngoài ra, dự án cũng phải có báo cáo thuyết minh kỹ thuật về hiệu quả môi trường, cơ chế giám sát và đo lường tác động thực tế.
Đặc biệt, phần quan trọng nhất của Dự thảo là quy định về cơ chế xác nhận độc lập. Theo đó, tổ chức xác nhận phải là một đơn vị trung lập, có tư cách pháp nhân, có chuyên môn trong lĩnh vực đánh giá sự phù hợp hoặc kiểm toán môi trường, và phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về chứng nhận xanh. Tổ chức này có trách nhiệm kiểm tra, thẩm định và đưa ra kết luận cuối cùng về việc dự án có đáp ứng đủ tiêu chí môi trường hay không. Nếu đạt yêu cầu, dự án sẽ được cấp văn bản xác nhận tiêu chí môi trường, và đây chính là “tấm vé thông hành” để doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn xanh với điều kiện ưu đãi, đồng thời tăng tính tin cậy đối với nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Không chỉ có giá trị trong cấp tín dụng, văn bản xác nhận còn là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát hành trái phiếu xanh. Với hệ thống giám sát, thanh tra hậu kiểm được quy định rõ trong dự thảo, việc sử dụng vốn trái phiếu sẽ được kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn tình trạng “rửa xanh” (greenwashing) – một trong những rủi ro lớn nhất hiện nay trên thị trường tài chính bền vững toàn cầu.

Tín dụng xanh sẽ là trụ cột cho tăng trưởng bền vững nếu có khung pháp lý minh bạch
Dự thảo Quyết định về tiêu chí môi trường và xác nhận dự án xanh là một bước đi quan trọng để Việt Nam từng bước xây dựng hệ sinh thái tài chính xanh đồng bộ, hội nhập và hiệu quả. Khi có khung tiêu chí rõ ràng và cơ chế xác nhận minh bạch, các tổ chức tín dụng sẽ tự tin hơn trong việc cấp vốn, doanh nghiệp có thêm động lực để đầu tư vào các giải pháp công nghệ sạch, đồng thời nhà nước cũng có công cụ kiểm soát, điều tiết thị trường tài chính theo hướng phát triển bền vững. Trong bối cảnh Việt Nam cam kết mạnh mẽ tại các diễn đàn quốc tế về khí hậu, tín dụng xanh sẽ không chỉ là một kênh tài chính ưu đãi, mà còn là đòn bẩy chiến lược giúp nền kinh tế chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng xanh, bao trùm và phát thải thấp trong những năm tới.